Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Nguyễn Huệ Hà Nội

Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Ông là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam.  Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn. Bình Ngô Đại Cáo là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chóng quan Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Suốt nhiều trăm năm qua, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi trên nhiều phương diện chính trị, văn hoá, văn học, nghệ thuật,… Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi vẫn còn là khá mới mẻ. một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời và hoạt động cống hiến của nhà tư tưởng kiệt xuất này. Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là “yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tòi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó: Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa, Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất.  Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết. Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa.

Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”. Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truvền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.

Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: “người tài ở đời vốn không ít”, nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách như học hành thi cử; hoặc tiến cử “văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì… tùy tài trao chức”; hoặc ứng cử “người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng quân nhỏ”, “người hào kiệt náu ởnơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính” phải tự mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.

Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng “bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.

Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.

Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng “thiên cổ hùng văn” khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.

Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – Bài làm 2

Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê và ngày nay, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao thời đại kết hợp lại. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Tuy gặp nhiều oan khuất và bi kịch, suốt cả cuộc đời tận tuỵ cống hiến của Nguyễn Trãi được bao trùm bởi một tư tưởng vĩ đại: tư tưởng nhân nghĩa, mà qua thơ văn ông, chúng ta có thể thấy điều đó. Bình ngô đại cáo là một trong số các tác phẩm đó, thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa này.

Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp được thấm nhuần xuyên suốt qua từ câu đầu tiên:

Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Tư tưởng nhân nghĩa đã được khẳng định ngay từ đầu tác phẩm. Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình. Cả cuộc đời ông đã giành trọn cho những công việc nhân nghĩa, ta có thể coi đó là lí tưởng của ông. Một lí tưởng cao quý. Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác. Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ, ta có thể thấy lòng Nguyên Trãi bao la và suy nghĩ của ông thật rộng lớn. Với tư cách một vị quan và trên phương diện thay lời Vua để viết lời tuyên cáo chiến thắng, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yên dân tức là làm cho dân được yên ổn làm ăn, ấm lo hạnh phúc trong an bình. Vì thế, quân điếu phạt trước lo trừ bạo, phải dẹp tan giặc giã hung tàn để cho yên dân. Ông thương dân và lo cho dân với tất cả tấm lòng mình, không phải để ban ơn cho dân mà là đền ơn dân như ông từng nghĩ ăn lộc, đền ơn kẻ cấy cày. Đó là một suy nghĩ hết sức tiến bộ và đáng quý biết bao trong thời đại lúc bấy giờ, mà qua bao thời gian, đến ngày nay vẫn vô cùng giá trị.

Xem thêm:  Phân tích đoạn thơ Nỗi thương mình trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du - Văn mẫu lớp 10

Trong suốt toàn bài Cáo Bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ rõ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn 

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ… …

Cũng từng chứng kiến sự tan cửa nát nhà, sự man rợ của bọn cuồng Minh sát hại người vô số  , nên Nguyễn Trãi đã hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận thay khi những người dân đang gặp cảnh chiến tranh khốc liệt. Những dân đen, con đỏ là những người ở tầng lớp khốn khổ nhất xã hội, những người chuyên đi cày cấy, đi ở, đi làm thuê xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Trãi cùng tình cảm của ông. Sự quan tâm này thật không dễ gì có được ở những người vốn làm quan lại như ông, vì thế đây là điều rất tốt đẹp của tư tưởng Nguyễn Trãi.

Càng thương dân, ông càng căm giận quân xâm lược. Đoạn kể tội giặc của ông với những hình ảnh cụ thể trong bài Cáo Bình Ngô đầy nước mắt đồng cảm thương xót cho nhân dân, cho quê hương cho cây cỏ núi sông, đồng thời ngùn ngụt lòng căm thù, tức giận đối với kẻ ngoại xâm và bán nước.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời 

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. 

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nối rừng sâu nước độc …

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ 

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Nặng nề những nỗi phu phen 

Tan tác cả nghề canh cửi.

Trước tội ác đến độ

Trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Nước Đông Hải không rửa sạch mùi

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần dân chịu được?…

Ngẫm thù lớn há đội trời chung 

Căm giặc nước thề không cùng sống. 

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mách bảo ông rằng, đã đến lúc trừ bạo để yên dân. Tâm trạng của ông, cũng là của Lê Lợi canh cánh suốt ngày đêm nỗi lo làm sao đánh giặc, cứu dân thoát cơn nguy biến và giành lại độc lập cho giang sơn. Tư tưởng nhân nghĩa ở đây xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Lòng yêu nước, thương dân vĩ đại ấy đã khiến Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi: đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai suốt mười mấy năm trời. Bài Cáo toát lên một tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc khi nhắc lại lịch sử.

Như nước Đại Viêt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập 

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tấm lòng thanh cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho quân dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đối với vị chủ tướng như ông, chiến thắng không phải tất cả, nếu nhân dân cần cuộc sống ấm no thì ta cho họ, ta cũng không nên vì lợi lộc mà quên đi mục đích ban đầu

Hơn thế nữa, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn đối với những kẻ đã gây họa cho nước Đại Việt.Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận có sức mạnh hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hoà hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!

Trong tác phẩm Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, tử tưởng nhân nghĩa dường như hoà quyện trong từng lời từng ý, toả ra dưới ngòi bút sắc bén của ông. Nguyễn Trãi đã là một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng đẹp đẽ và cao quý như vậy. Ông đã nguyện dành hết tất cả tài đức, khả năng của mình cho việc nhân nghĩa, để trợ dân.Vì thế, sau khi về ở ẩn, khi vua mời ra làm quan, ông đã sẵn sàng ra ngay không nề hà.

Tâm hồn Nguyễn Trãi đong đầy nhân nghĩa, rất thanh cao và trong sáng, có thể coi như một viên ngọc quý. Tên tuổi ông là một dấu son lớn trong trang sử danh nhân Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa của ông vượt thời gian – qua bao thế kỉ, bao triều đại, và vượt cả không gian – Vang danh trên thế giới, ý nghĩa rộng lớn không biên giới của lòng nhân nghĩa ấy để trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người!

Chúng ta kính trọng Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân nghĩa quý báu đã góp phần lớn lao cho lịch sử dân tộc, lại càng thương thay cho cuộc đời lắm éo le, oan khuất của ông. Nguyên nhân cũng chính vì những kẻ xấu không chịu nổi tư tưởng của ông quá tiến bộ, con người ông quá trong sạch và tốt đẹp, vì sự trung thực của một con người nhân nghĩa – Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi đã được mọi người đời sau thương mến kính trọng vì tư tưởng và hành động (rất nhân nghĩa) của ông. Chúng ta tin rằng, chúng ta sẽ thực hiện được những điều có ích cho dân, cho nước,như nguyễn Trãi – tổ tiên chúng ta đã từng theo đuổi – và sẽ có nhiều tấm gương sáng noi theo ông – ngôi sao khuê sáng mãi trên bầu trời Đại Việt.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – Bài làm 3

Nguyễn Trải (1380 – 1442) một trong những người đóng góp lớn lao không chỉ cho quê hương đất nước mà còn cho nền thi ca Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi như Quốc Âm thi tập, Dư địa chí,.. thông qua đó, tác giả gửi gắm những tư tưởng , triết lí sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, lí tưởng xây dựng một đất nước tươi đẹp. Bình ngô đại cáo là một trong những tác phẩm đặc sắc, thể hiện rõ triết lí nhân nghĩa của tác giả, cũng tạo nên dấu ấn sâu sắc trong lịch sử tư tưởng của Việt Nam

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi bao trùm tất cả các tác phẩm cũng như lối sống và cuộc đời của ông. Qua Bình ngô đại cáo, tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở nhiều khía cạnh, đó là thương dân, vì dân, sự khoan dung độ lương, tư tưởng “ lấy dân làm gốc” cho nên, ông đau trước nỗi đau của dân, căm thù trước nỗi căm thù của dân.

Đối với Nguyễn Trãi , tư tưởng nhân nghĩa chính là việc yên dân và trừ bạo, Chính vì dân là gốc rễ, dân là ngọn nguồn của sự an nguy của nước nhà, cho nên dân trăm họ là con của vua, là những đứa con mà cần phải bảo vệ che chở. Cho nên

 “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Như vậy nhân nghĩa ở đây chính là yêu nước , thương dân, đánh đuổi bọn xâm lược, có ý đồ xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của nhân dân ta. Như vậy trừ bạo để yên dân và yên dân để mạnh hơn cho việc trừ bạo. Nó vừa là đối tượng vừa là phương tiện của nhân nghĩa. Bên cạnh đó, mạng đậm tinh thần và sắc thái yêu nước của dân tộc Việt Nam, người nhân nghĩa phải đứng lên đấu tranh cho hợp tròi hợp người nên có thể “ lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều “. Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng an dân , đó là một niềm khát khao mãnh liệt , mà cần có dày công mới gây dựng và bảo vệ được. Dân là sức mạnh , là sự đoàn kết thống nhất, nó tạo nên một nguồn mạnh mẽ vượt qua mọi sự càn quét và hung tàn của kẻ thù. An dân cũng còn có nghĩa là làm cho cuộc sống nhân dân trở nên no đủ, nhà nhà yên ấm… Mọi thứ phải lấy dân làm gốc, phải dựa vào sức dân, tư tưởng này đã xuất hiện và xuyên suốt từ thời nhà Lí và nó trường tồn cho tới thế hệ sau này.

Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ dừng lại đó mà còn là tư tưởng trọng dân, biết ơn công lao của nhân dân. Bằng những tiếp xúc với dân chúng, Nguyễn Trãi có cuộc sống gần gũi với dân chúng khá lâu , cho nên ông cũng hiểu được nhân dân là người tạo ra của cải vật chất, người có đóng góp nhiều ngay cả ở thời bình và thời chiến.Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.

Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng. Đây chính là một nét riêng biệt độc đáo trong tư tưởng nhân nghĩa của ông, xuyên suốt các tác phẩm. Nhân nghĩa gắn liền với nhiệm vụ cao cả bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, một gang một tấc cũng vô cùng quý giá. Nước Đại Việt cũng đứng ngang hàng với các nước khác, có lịch sử phát triển lâu dài “ nền văn hiến lâu đời” , đây chính là truyền thống được gìn giữ qua hàng nghìn năm dựng nước và dựng nước,tinh thần bất khuất không sọ hãi trước kẻ thù.

“ Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục bắc nam cũng khác”

Vậy nên, chủ quyền của đất nước ta là của ta, không ai được phép xâm lấn, cùng với đó là sự đặt ngang hàng vị thế của nước ta với các nước to lớn và có quyền lực khác, để càng nhấn mạnh sức mạnh của dân tộc ta không bao giờ lụi tàn.

Nhân nghĩa còn được thể hiện ở sự cảm thông, đau đáu trước nỗi khốn khổ tù đày của dân chúng. Giống như đứa con ruột của mình, mang nặng đẻ đau,chứng kiến lũ con dân bị đẩy vào tù túng, khổ sở mà lòng đau như cắt:

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc

….

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”

Đất nước ta và con người ta yêu chuộng hòa bình, trong bình ngô đại cáo – được xem như bản tuyên ngôn đọc lập thứ 2 của nước ta thì  tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở tinh thần yêu chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo cao cả, dù chúng ta bị chúng xâm chiếm, đày ải bao nhiêu. Những triết lí này của dân tộc ta được thể hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử:

“ Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”

Quay trở về với việc tha cho bọn chúng cũng vì thương dân, cũng lo sợ dân sẽ mất sức mất của ,hi sinh quá nhiều vì những cuộc chiến đẫm máu.dù làm gì thì ông vẫn nghĩ tới lợi ích lâu dài của đất nước của nhân dân. Dân lầm than nước nhà cũng chẳng được yên ổn, chỉ có tổng hợp sức mạnh mới chiến thắng tất cả

Xem thêm:  Qua bài Bài ca Côn Sơn, Cảnh khuya, Rằm tháng giêng, Xa ngắm thác núi Lư, hãy phát biểu cảm nghĩ và tình cảm của em về niềm vui sống giữa thiên nhiên

 Tư tưởng nhân nghĩa là một trong những nét đặc trưng xuất hiện hầu hết ở các tác phẩm của Nguyễn Trãi đặc biệt là trong bài “ Bình Ngô đại cáo”. Qua tác phẩm cũng như những tư tưởng mà ông gửi gắm, chúng ta có thể thấy được sự khoan dung nhân đạo, cũng như tầm nhìn xa trông rộng của một vị anh tài.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – Bài làm 4

Nguyễn Trãi là một vị anh hùng của dân tộc, là danh nhân văn hóa của thế giới. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố và oan ức nhưng ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị đồ sộ cho đời sau kể cả về chữ nôm và chữ hán. Trong đó “bình ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm kiệt xuất của ông .

Bình ngô đại cáo là một khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Hơn thế nữa, tác phẩm này đã trở thành một áng thiên cổ hùng văn bất hủ đời đời, là một bản tuyên ngôn độc lập đanh thép ,hùng hồn về nền độc lập của dân tộc ta. Điểm cốt lõi của tác phẩm được thể hiện cả hai tư cách đó là “nhân nghĩa” mà nhân dân ta ca ngợi mãi cho đến về sau.

Mở đầu cho tác phẩm thì Nguyễn Trãi đã nêu lê một nguyên li nhân nghĩa đó là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tư tưởng nhân nghĩa đó xuyên suốt cả bài thơ, dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi chống giặc ngoại xâm mang lại sự bình yên,ấm no và hạnh phúc cho muôn dân.

Nhân nghĩa là tinh thần chính nghĩa của nhân dân mang lại bản sắc riêng của dân tộc. Nhân nghĩa ở đây chính là để trừ bạo cho dân, nó được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể hơn. Đó là chống quân xâm lược để giữ vững bờ cõi ,tiêu diệt các cuộc phản nghịch chống lại triều đình.“quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã xem việc an dân là mục tiêu của nhân nghĩa , đó là trừ bọn cướp nước . Dùng nhân nghĩa để đối xử với những bọn bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng là việc làm nhân nghĩa

Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc tới đó là lòng thương dân, tin tưởng và biết ơn nhân dân. Dan chúng luôn được ông nhắc tới trong chiến tranh và trong thời bình . Nhân dân sản xuất ra của cải vật chất ,sống gần dân thương dân và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nhân dân trước tiên. Chính vì vậy mà chúng ta thấy được rõ ngay từ  đầu bài cáo chúng ta thấy nhắc được tới nhân dân đầu tiên. Trong suốt cuộc đời của sống sống gần dân và ở ngay cạnh dân cho nên ông hiểu được mong muốn của nhân dân.

Tư tưởng nhân nghĩa đó còn là sự bao dung đối với kẻ thù. Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thê hiện ở trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Có thể nói rằng chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược đã chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Tư tưởng nhân nghĩa đó còn được thể hiện ở sự khoan dung cho kẻ thù khi chúng bại trận. Nó thể hiện được đức hiếu sinh của dân tộc ta cũng như tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi khi đối phó với địch trong cuộc khởi nghĩa. Chúng ta đánh giặc bằng ý chí sức mạnh và sự căm thù nhưng khi chúng bại trận đầu rơi máu chảy thì chúng ta có sự khoan dung. Ta chiến đấu cũng chỉ để lấy lại lãnh thổ, lấy lại sự bình yên cho muôn dân, đó chính là mục tiêu cuối cùng.

Những việc làm của dân tộc ta đối với kẻ thù làm cho nước họ phải tôn trọng, biết ơn. Và chính việc làm này cũng khiến cho quân minh e dè không dám quay đầu lại xâm lược nước ta nữa. “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”.  Đây thật sự là một tư tưởng lớn cho con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống vang mãi cho tới muôn đời sau.

Ta cũng có thể hiểu được tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp ích cho nhân dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm người hiền tài càng nhiều thì lúc đấy xã tắc mới hưng thịnh được ,nhân dân mới ấm no hạnh phúc.

Qua tác phẩm bình ngô đại cáo cho chúng ta thấy rằng tư tưởng nhân đạo, là một minh chứng cho cuộc chiến thắng hùng hồn của nhân dân ta.

Tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo không chỉ là có ý nghĩa to lớn mà còn có tầm ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình chính trị của đất nước ở thời đại sau. Lí tưởng nhân nghĩa này luôn trường tồn mãi mãi với dân tộc ta cho đến tận bây giờ.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – Bài làm 5

“Ai lên ải Bắc ngày xưa ấy

Khóc tiễn cha đi mấy dặm trường …”

“Ai” được nói đến trong bài thơ “Mục Nam Quan “ này (Tố Hữu) là Nguyễn Trãi, nhà thơ lớn của dân tộc, người anh hùng vĩ đại đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “Bình Ngô” và thảo “Bình Ngô đại cáo” – áng “thiên cổ hùng văn” của Đại Việt.

Mùa xuân năm 1428, sau 10 năm kháng chiến gian lao và anh dũng, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã toàn thắng “ ngàn thu vết nhục nhã sạch làu”. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo”. Bản tuyên ngôn độc lập này của Đại Việt không chỉ tổng kết chiến tranh giải phóng dân tộc tuyên bố đất nước độc lập, thái bình mà còn hàm chứa những tư tưởng, tình cảm vô cùng cao đẹp. Tư tưởng cao đẹp của Nguyễn Trãi tỏa sáng trong các câu:

– Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

– “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

1. Nguyễn Trãi đã đứng trên đỉnh cao thời đại, với niềm tự hào dân tộc, đại diện cho chính nghĩa và dân tộc chiến thắng mà phát ngôn, mà trịnh trọng tuyên bố.

Đem quân điếu phạt trừng trị kẻ có tội, tiêu diệt quân bạo ngược là việc nhân nghĩa. Việc nhân nghĩa ấy cốt mang lại yên dân, làm cho nhân dân được yên vui hạnh phúc.

Đại nghĩa là cái nghĩa lớn vì nước vì dân, phấn đấu cho nước độc lập, dân được ấm no hạnh phúc. Chí nhân là lòng thương người vô cùng sâu sắc, cực độ. Cứu vớt nhân dân thoát khỏi vòng lầm than đau khổ là chí nhân. Ta thì đại nghĩa và chí thân. Giặc Minh thì hung tàn, cường bạo: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn – Vùi con đò xuống hầm tai vạ”. Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã đem sức mạnh đại nghĩa và lòng chí nhân để đánh thắng hung tàn, để đập tan cường bạo.

Tóm lại, hai câu văn trên thể hiện tư tưởng nhân nghĩa và sức mạnh nhân nghĩa của Đại Việt. Tư tưởng ấy lấy đất nước và nhân dân làm gốc. Cái nhân cái nghĩa cao cả nhất là chống bạo tàn, diệt ngoại xâm, phấn đấu cho nước được độc lập, nhân dân được hạnh phúc, “muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

2. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi đã cho thấy tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp, sang ngời và vô cùng phong phú, đã vượt qua mọi hạn chế của thời gian và lịch sử, ngày một thêm rực rỡ

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380 trong một thời kì lịch sử đầy biến động và bão táp. Triều Trần suy đồi, nhà Hồ lên thay, chưa được bao lâu đã phải đương đầu với họa xâm lăng của bọn phong kiến phương Bắc. Năm 1407, nước ta bị giặc Minh xâm lược và thống trị. Nước mất nhà tan. Cha bị giặc bắt, đày sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi sẽ không bao giờ quên lời cha dặn tại ải Nam Quan: ‘Con là người có tài có hiếu, hãy trở về lo rửa hận cho nước, trà thù cho cha, như thế mới là đại hiếu”

Sau 10 năm bị giặc Minh giam lỏng ở thành Đông Quan (Thăng Long), Nguyễn Trãi đã trốn thoát vào Lam Sơn tụ nghĩa, dâng lên Lê Lợi “Bình Ngô sách” Từ đó ông trở thành cánh tay phải đắc lực của Bình Định Vương “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”. Những bức thư gửi tướng tá giặc Minh của Nguyễn Trãi vừa nêu cao đại nghĩa và tất thắng của quân ta, vừa lên án tội ác giặc Minh “dối trời lừa dân,… gây binh kết oán ”, và con đường tất bại của chúng. Những bức thư địch vận của ông “có sức mạnh bằng mười vạn quân!”

Chiến tranh kết thúc, ông thảo “Bình Ngô đại cáo”, một bản Tuyên ngôn độc lập, một bài ca hùng tráng, thể hiện khí phách anh hùng và lòng nhân đạo hiếm có của một dân tộc văn minh ! Nguyễn Trãi đã đem tài năng ra xây dựng đất nước, làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu triều Lê. Ăn bổng lộc vua ban nhưng với ông, với kẻ sĩ phải biết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Ông mơ ước xây dựng Đại Việt “quốc phú binh cường”, một xã hội có “vua sáng tói hiền”. Ông khuyên nhà vua chăm lo đến nhân dân, nêu cao nhân nghĩa, để “nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than”

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyền Trãi trong xây dựng hòa bình đã bị bọn nịnh thần chống lại. Chúng khép ông vào tội tru di tam tộc. Sau vụ án “Lệ Chi Viên ” 20 năm, ông mới được vua Lê Thánh Tông minh oan và ca ngợi: “ Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”. Điều đó cho thấy cái gốc của thiên tài Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa” là “đại nghĩa “, là “chí nhân”. Ông là một con người suốt đời vì nước vì dân.

Nguyễn Trãi không chỉ là nhà tư tưởng vĩ đại mà còn là nhà văn hóa kiệt xuất. Thơ văn của ông là di sản tinh thần phong phú, đa dạng, tuyệt đẹp, thấm nhuẩn tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc. “Bình Ngô đại cáo ” tỏa sáng tư tưởng nhân nghĩa, mở đầu bằng hai chữ “yên dân ” kết thúc bằng câu “Muôn thuở nền thái bình vững chắc” Giặc Minh hung tàn, bạo ngược, kẻ thù không đội trời chung của nhân dân ta:

“Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán, trải hai mươi năm

Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”

Đại nghĩa và chí nhân là sức mạnh nhân nghĩa, là tinh thần đoàn kết chiến đấu của toàn dân, của tướng sĩ, là nguồn gốc của chiến thắng: “ Đánh một trận sạch không kình ngạc – Đánh hai trận tan tác chim muông”. Nêu cao đại nghĩa và chí nhân mà Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã không giết tù, hàng binh giặc, đối xử nhân đạo:

Xem thêm:  Viết đoạn văn chứng minh lòng yêu nước của dân tộc ta

“Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cổ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run”

“Quốc âm thi tập” và “ức Trai thi tập” là tinh hoa của nền thơ ca cổ dân tộc. Bao trùm lên toàn bộ thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi là lòng yêu nước thương dân. Giương cao ngọn cờ “ Đại nghĩa, chí nhân”, Nguyễn Trãi đã gắn hoạt động văn hóa với đề cao nhân phẩm:

“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,

Có nhân, có trí, có anh hùng!’

(Quốc âm thi tập)

Các khái niệm “trung, hiếu” và “ưu, ái” (lo nước thương dân) được Nguyễn Trãi nhắc đến nhiều lần trong thơ tạo nên một hồn thơ tuyệt đẹp:

– “Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”.

(Thuật hứng – 5)

– “Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen

(Thuật hứng – 24)

Yêu nước thương dân bao nhiêu thì lòng tự hào dân tộc càng dào dạt bấy nhiêu. Nguyễn Trãi tự hào về nước Đại Việt “vấn xưng nền văn hiến đã lâu” Ông tự hào về cảnh trí non sông đẹp như hoa như gấm, hùng vĩ nên thơ:

“ Non Dục Thúy, mưa tan, đỉnh tựa ngọc,

Cửa Đại An, triều dậy, nước ngang trời”

( Ức trai thi tập)

Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc. Trái tim của Nguyễn Trãi mãi mãi cùng nhịp đập với nhân dân ta. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi sáng mãi như ngôi sao Khuê trên bầu trời quê hương. Đúng như bạn ông đã nói: “Lo toan việc nước, làm đẹp cho nước, xưa nay chưa có ai như thế!

Ôn lại cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi, chúng ta nguyện học tập và phát huy tư tưởng nhân nghĩa của ông để xây dựng Việt Nam thành một nước dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tự hào thay, nhân dân ta đã nhân nghĩa để dựng nước và giữ nước, để Đại Việt “muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi – Bài làm 6

Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam.  Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả sất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn. Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chóng quan Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”

Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là “yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạn phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tòi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó:

“Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa, Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất.  Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập. Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân. Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc ống yên ổn của nhân dân dân. Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của  bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân.  Bởi mọi hoạt động lớn nhở của quốc gai cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là đem lại cuộc sống an nhàn cho nhan dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của nhân dân.

Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trân đó còn là lòng bao dung với kẻ thù. Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sẹ khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.  Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đánh địch  bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng. Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng  và biết ơn. Việc làm này cũng khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa

Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.

Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới dược âm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.

Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và “Bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.

Tư tưởng nhân nghĩa trong “bình ngô đại cáo không chỉ có ý nghĩa to lớn xét về mặt nhân nghĩa mà còn có tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong những thời đại sau này nữa. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ

Topics #Bình Ngô Đại Cáo #chiến thắng #chiến tranh #Chiếu cầu hiền #con đường #con người #cuộc sống #Đất nước #học sinh #học tập #lối sống #Nguyễn Trãi #Nước Đại Việt Ta #Phân tích tư tưởng nhân nghĩa #suy nghĩ #thi cử #thời gian #tố hữu #văn học #văn minh #văn phân tích #viết thư